Khám phá làng gốm Bát Tràng
Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013
Theo sử biên niên có thể xem thế kỷ 14-15 là thời gian hình
thành làng gốm Bát Tràng.
Đại Việt sử ký
toàn thư chép "Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thú 12 (1352)... mùa thu, tháng
7, nước lớn tràn ngập, vỡ đê xã Bát, Khối, lúa má chìm ngập. Khoái Châu, Hồng
Châu và Thuận An bị hại nhất". Xã Bát là xã Bát Tràng, xã Khối là xã Thổ
Khối, hai xã ven đê bên tả ngạn sông Nhị, tức sông Hồng ngày nay.[2]
Cũng theo Đại Việt
sử ký toàn thư thì năm 1376, trong một cuộc Nam chinh, đoàn chiến thuyền của
vua Trần Duệ Tông xuất phát từ Thăng Long xuôi theo sông Nhị (sông Hồng) đi qua
"bến sông xã Bát" tức bến sông Hồng thuộc xã Bát Tràng.
Dư địa chí của
Nguyễn Trãi chép "Làng Bát Tràng làm đồ bát chén" và còn có đoạn
"Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Câu thuộc huyện Văn Giang. Hai làng ấy
cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70 bộ bát đĩa, 200 tấm vải thâm"...
Nhưng theo những câu chuyện thu thập được ở Bát Tràng thì
làng gốm này có thể ra đời sớm hơn. Tại Bát Tràng đến nay vẫn lưu truyền những
huyền thoại về nguồn gốc của nghề gốm như sau:
Vào thời nhà Lý,
có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay Cảo), Đào Trí Tiến và Lưu Phương
Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên
đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đông) (hiện nay tại Triều Châu, tỉnh Quảng
Đông, Trung Quốc) gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến
thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá cho dân chúng quê hương. Hứa
Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ
Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú
truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu đỏ màu vàng thẫm.
Câu chuyện trên cũng được lưu truyền ở Thổ Hà và Phù Lãng với ít nhiều sai biệt
về tình tiết. Nếu đúng vậy, nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang với
thời Bắc Tống nghĩa là trước năm 1127.
Theo ký ức và tục
lệ dân gian thì trong số các dòng họ ở Bát Tràng, có dòng họ Nguyễn Ninh Tràng.
Có ý kiến cho rằng Nguyễn Ninh Tràng là họ Nguyễn ở trường Vĩnh Ninh, một lò gốm
ở Thanh Hoá, nhưng chưa có tư liệu xác nhận. Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng
như họ Lê, Vương, Phạm, Nguyễn... ghi nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra
đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê khoảng cuối thế kỉ thứ 14
- đầu thế kỉ 15 và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch
Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hoá Ngoại. Ngày nay, Bồ Xuyên và
Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, vùng này
có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm gốm. Theo truyền thuyết và gia
phả một số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm
từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh
gốm ken dày đặc tìm thấy nhiều nơi ở vùng này.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở
thành trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Do nhu cầu phát triển của kinh
thành, nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về Thăng Long hành nghề
và lập nghiệp. Sự ra đời và phát triển của Thăng Long đã tác động mạnh đến hoạt
động kinh tế của các làng xung quanh, trong đó có làng Bát Tràng. Đặc biệt vùng
này lại có nhiều đất sét trắng, một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Một
số thợ gốm Bồ Bát đã di cư ra đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là
Bạch Thổ phường (phường Đất Trắng). Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng
từ một làng gốm bình thường đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng được triều
đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh.
Đến nay, chưa tìm thấy tư liệu lịch sử nào xác nhận tiểu sử
của ba nhân vật trên cũng như khẳng định sự hình thành của làng. Những công
trình khai quật khảo cổ học trong tương lai có thể cho thấy rõ hơn bề dày lịch
sử và những di tích của làng gốm Bát Tràng. Chỉ có điều chắc chắn là gốm Bát
Tràng xuất hiện từ rất sớm, vào giai đoạn cuối của Văn hoá Hoà Bình đầu Văn hoá
Bắc Sơn. Trong quá trình phát triển nghề gốm, đương nhiện có nhiều quan hệ giao
lưu với gốm sứ Trung Quốc và có tiếp nhận một số ảnh hưởng của gốm sứ Trung Quốc.
Thế kỉ 15–16
Một chiếc đỉnh bằng gốm tráng men trang trí đắp nổi rồng và
nghê do thợ làng Bát Tràng chế tạo vào năm 1736, thời Cảnh Hưng.
Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời
gian này là cởi mở, không chủ trương "ức thương" như trước nên kinh tế
hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng
được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn
ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn
này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà
Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn,
Mĩ quốc công phu nhân... Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn
bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ.
Thế kỉ 16–17
Sau những phát kiến địa lí cuối thế kỉ 15, nhiều nước phát
triển của Tây Âu tràn sang phương Đông. Các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh,
Pháp... thành lập công ty, xây dựng căn cứ ở phương Đông để buôn bán. Hoạt động
mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á vốn có lịch sử lâu đời càng trở nên sôi động,
lôi cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán châu Á và với thị trường
thế giới đang hình thành.
Sau khi thành lập, nhà Minh (Trung Quốc) chủ trương cấm tư
nhân buôn bán với nước ngoài làm cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung
Quốc bị hạn chế đã tạo điều kiện cho đồ gốm Bát Tràng mở rộng thị trường ở vùng
Đông Nam Á. Khi nhà Minh (Trung Quốc) bãi bỏ chính sách bế quan toả cảng (1567)
nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên liệu và mặt hàng quan trọng sang Nhật Bản,
đã tạo cho quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản đặc biệt phát triển, qua
đó nhiều đồ gốm Bát Tràng được nhập cảng vào Nhật Bản.
Năm 1644 nhà Thanh (Trung Quốc) tái lập lại chính sách cấm
vượt biển buôn bán với nước ngoài, cho đến năm 1684 sau khi giải phóng Đài
Loan. Trong thời gian đó, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có đồ
gốm Bát Tràng không bị hàng Trung Quốc cạnh tranh nên lại có điều kiện phát triển
mạnh.
Thế kỉ 15–17 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất
gốm xuất khẩu Việt Nam, trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và nổi
tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu-Mỹ Xá (các xã Minh Tân, Thái Tân, huyện Nam Sách,
tỉnh Hải Dương). Lúc bấy giờ, Thăng Long (Hà Nội) và Phố Hiến (nay thuộc tỉnh
Hưng Yên) là hai đô thị lớn nhất và cũng là hại trung tâm mậu dịch đối ngoại thịnh
đạt nhất của Đàng Ngoài. Bát Tràng có may mắn và thuận lợi lớn là nằm bên bờ
sông Nhị (sông Hồng) ở khoảng giữa Thăng Long và Phố Hiến, trên đường thuỷ nối
liền hai đô thị này và là cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. Qua thuyền
buôn Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây, đồ gốm
Việt Nam được bán sang Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á, Nam Á.
Các công ty phương Tây, nhất là Công ty Đông Ấn của Hà Lan, trong
phương thức buôn bán "từ Ấn Độ (phương Đông) sang Ấn Độ", đã mua nhiều
đồ gốm Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản.
Cuối thế kỉ 17& đầu thế kỉ 18
Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị
giảm sút nhanh chóng vì sau khi Đài Loan được giải phóng (1684) và triều Thanh
bãi bỏ chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó, gốm sứ chất lượng
cao của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á và đồ gốm Việt Nam không đủ
sức cạnh tranh. Nhật Bản, sau một thời gian đóng cửa để bảo vệ các nguyên liệu
quý như bạc, đồng, đã đẩy mạnh được sự phát triển các ngành kinh tế trong nước
như tơ lụa, đường, gốm sứ... mà trước đây phải mua sản phẩm của nước ngoài.
Thế kỉ 18–19
Tượng nghê bằng gốm do thợ gốm làng Bát Tràng làm thời Cảnh
Hưng.
Một số nước phương Tây đi vào cuộc cách mạng công nghiệp với
những hàng hoá mới cần thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tình hình kinh tế đó cùng
với chính sách hạn chế ngoại thương của các chính quyền Trịnh, Nguyễn trong thế
kỉ 18 và của nhà Nguyễn trong thế kỉ 19 đã làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của
Việt Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Đó là lí do khiến một
số làng nghề gốm bị gián đoạn sản xuất (như làng gốm Chu Đậu-Mỹ Xá). Gốm Bát
Tràng tuy có bị ảnh hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị
trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí
và gạch xây rất cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quý tộc đến dân thường.
Trong giai đoạn này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm sút, nhưng làng gốm Bát Tràng
vẫn là một trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong nước.
Thế kỉ 19 đến nay
Tượng hổ bằng gốm do thợ gốm làng Bát Tràng làm thời Cảnh
Hưng.
Trong thời Pháp
thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập cạnh
tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường.
Sau Chiến tranh
Đông Dương (1945–1954), năm 1957, 10 cá nhân là địa chủ, con địa chủ của thôn
Bát Tràng(sau cải cách ruộng đất năm 1955) góp vốn thành lập công ty gốm Trường
Thịnh, để sản xuất gốm sứ dân dụng phục vụ xã hội, đây là nền tảng khởi đầu cho
Xí nghiệp sứ Bát Tràng. Năm 1958 nhà nước làm công tư hợp doanh, chuyển đổi
công ty gốm Trường Thịnh thành Xí nghiệp sứ Bát Tràng, thuê công nhân thôn Bát
Tràng vào làm việc. Với cơ sở vật chất đầy đủ, nhân công Bát Tràng được thử
nghiệm, thực hành, sáng tạo trên cơ sở sự chịu khó, cần cù đã tạo nên được một
thế hệ có tay nghề gốm vững chãi. Cùng lúc đó một số hợp tác xã như Hợp Thành
(1962), đóng ở phần đất gần với xã Đa Tốn, Hưng Hà (1977), Hợp Lực (1978), Thống
Nhất (1982), Ánh Hồng (1984) và Liên hiệp ngành gốm sứ (1984)Xí nghiệp X51, X54
(1988)... Các cơ sở sản xuất trên cung cấp hàng tiêu dùng trong nước, một số
hàng mĩ nghệ và một số hàng xuất khẩu. Những nghệ nhân nổi tiếng như của Bát
Tràng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn, Lê Văn Cam... đào tạo được
nhiều thợ gốm trẻ cung cấp cho các lò gốm mới mở ở các tỉnh.
Sau năm 1986 làng
gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị trường. Các hợp tác
xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần, những công ty lớn được
thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ biến là những đơn vị sản
xuất nhỏ theo hộ gia đình. Xã Bát Tràng nay đã trở thành một trung tâm gốm lớn.
Hiện nay, sản phẩm
gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng. Ngoài các mặt hàng truyền thống,
các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng
trong Việt Nam như các loại ấm chén, bát đĩa, lọ hoa... kiểu mới, các vật liệu
xây dựng, các loại sứ cách điện... và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng
của nước ngoài. Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị trường cả nước và được xuất
khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ khắp
nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Một số nghệ nhân đã
bước đầu thành công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu
dáng và nước men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc...
Từ những thế kỷ trước, đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao cấp,
quý hiếm nhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư hương, bình hoa. Về sau, do
thị hiếu phát triển, cộng với nhu cầu thị trường, gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ
gia dụng, phổ biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ. Ngày nay, cái khéo cái tài của
người làng gốm Bát Tràng được phát huy cao độ trong cơ chế thị trường. Nhiều mặt
hàng phong phú về chủng loại và kiểu dáng đã được sản xuất. Các loại gốm mỹ thuật,
gốm sứ công nghiệp, đồ giả cổ, gốm xây dựng cao cấp đã dần được sản xuất nhiều
hơn đồ gốm gia dụng. Bây giờ những mặt hàng truyền thống xưa chỉ được làm khi
có khách đặt để trùng tu phục chế di tích cổ. Đứng trước những mặt hàng mỹ nghệ
gốm Bát Tràng, ta cảm thấy thán phục đến kinh ngạc bởi bàn tay tài hoa của các
nghệ nhân làng gốm - những con người đã sai khiến được đất và lửa để tạo nên những
men ngọc cho đời.
Ðến Bát Tràng hôm nay, ít có ai ngờ có một thời nghề gốm sứ
nơi đây đã có cơ mai một, cả làng chỉ còn vài lò gốm của HTX với sản phẩm đa dạng
như bát, tích, chén, sành phẩm chất cấp thấp. Ðể có sức sống đầy xuân sắc hôm
nay, người Bát Tràng ngoài cái tinh, cái nhạy còn tiềm ẩn một tình yêu da diết
với nghề gốm cổ truyền. Bằng lòng yêu nghề và sự miệt mài lao động, tìm tòi
sáng tạo, các nghệ nhân đã tìm ra bí quyết men mờ, rạn của gốm cổ Việt để phục
chế các nước men gốm sứ Bát Tràng xưa. Những thành quả lao động sáng tạo của lớp
nghệ nhân già cùng sức trẻ của Bát Tràng đã làm nên một thế giới đa dạng, sống
động lấp lánh sắc màu từ nắm đất quê hương.
Tháng 10/2004 chợ gốm Bát Tràng bao gồm các gian hàng của gần
1000 hộ dân chuyên sản xuất đồ gốm tiêu dùng đã được khai trương trên khuôn
viên rộng hơn 5.000m² của công ty Cổ phần Gốm sứ Bát Tràng. Không chỉ là nơi
trưng bày và tổ chức các cuộc giao thương, người dân Bát Tràng hy vọng chợ gốm
sẽ thu hút đông đảo khách du lịch và sẽ nhanh chóng trở thành một địa điểm du lịch
nổi tiếng của thủ đô Hà Nội.
Chia s?:
Chia sẻ
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét